Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

Khám phá vấn đề khốc liệt "cuộc chiến" giành thị phần

 Không có phân khúc nào để lựa chọn cả. Nói một cách chính xác, các doanh nghiệp thời trang Việt Nam hiện nay không có quyền “kén chọn” người tiêu dùng, vì người mua đã có nhiều cơ hội để lựa chọn người cung cấp. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là phải tìm cách tiếp cận người tiêu dùng và chinh phục họ.
Vừa là nhà thiết kế, vừa kinh doanh, cũng là người tư vấn cho một số doanh nghiệp, nên Ngô Thái Uyên luôn có cái nhìn “đa chiều” về thị trường thời trang Việt Nam. Và sau những tìm tòi, trải nghiệm của bản thân, điều mà chị trăn trở nhất là chỗ đứng của thời trang trong nước vẫn còn rất bấp bênh...
* Theo đánh giá của một số chuyên gia nghiên cứu thị trường thì Việt Nam đang rất có tiềm năng trong lĩnh vực thời trang. Chị thấy sao?
- Theo tôi, nói như vậy chỉ đúng ở góc độ tiêu thụ thôi. Mãi đến những năm gần đây, Việt Nam mới có một số trung tâm thương mại đạt tiêu chuẩn quốc tế, và người tiêu dùng mới có điều kiện để thụ hưởng những dịch vụ chuyên nghiệp. Đây cũng chính là cơ hội tiêu thụ sản phẩm của ngành thời trang. Còn nếu nhìn từ góc độ sản xuất thì Việt Nam vẫn chưa phải là một thị trường tiềm năng trong lĩnh vực này.
Người ta bảo, có bột mới gột nên hồ, mà chúng ta thì chưa đủ điều kiện để sản xuất đồng bộ. Sản xuất thời trang theo quy trình công
nghiệp là để phục vụ những đơn hàng lớn, nhưng thị trường của chúng ta nhỏ, khả năng phát triển hệ thống cửa hàng của các doanh nghiệp cũng còn hạn chế.
Mặt khác, việc sản xuất thời trang từ A - Z rất khó khăn, vì tâm lý chung, ai cũng muốn mua sản phẩm đẹp và rẻ. Nhưng, nếu làm đúng quy trình sản xuất chuyên nghiệp thì sản phẩm thời trang của Việt Nam không thể rẻ hơn hàng nhập khẩu.
* Phải chăng, sự xuất hiện của các nhãn hiệu nổi tiếng như Gucci (Ý), Lacoste (Pháp), hay Thump (Hồng Kông) trong vài năm gần đây đã chứng tỏ thị trường Việt Nam đang dần trở nên hấp dẫn các hãng thời trang thế giới?
- Cho đến nay, xu hướng thời trang thế giới vẫn theo mùa và theo kỳ. Nhưng tại Việt Nam thì chỉ có hai “khái niệm” cũ và mới. Nhiều khi cái cũ của người ta nhưng lại là cái mới của mình. Việc nắm bắt thông tin về xu hướng thời trang ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, không chỉ với người tiêu dùng mà còn với cả những người làm nghề.
Trên thực tế, sự “đổ bộ” vào Việt Nam của các nhãn hiệu thời trang thế giới chỉ đơn giản vì họ không bán được giá cao ở nước ngoài nữa. Điều này một mặt do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, một mặt do những nhãn hiệu ấy đã quá nhàm với người tiêu dùng nước ngoài, trong khi với người tiêu dùng Việt Nam lại là niềm mơ ước. Nói cách khác, sự xuất hiện của các nhãn hiệu thời trang nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian gần đây chỉ là sự chuyển giao sản phẩm, là giải pháp tìm kiếm thị trường mới của họ (tương tự việc chúng ta đưa hàng Việt về nông thôn vậy).
* Chị đánh giá như thế nào về sự cạnh tranh giành thị phần của các doanh nghiệp thời trang trong nước hiện nay?
- Thị trường Việt Nam hiện nay đang là giai đoạn thử nghiệm cho cả doanh nghiệp thời trang trong nước và quốc tế, vì chưa ai biết rõ thị trường muốn gì, cần gì. Còn “cuộc chiến” giành thị phần thì đang rất khốc liệt. Nếu cho rằng năm nay và vài năm tới sẽ là “thời” của thời
trang thì sẽ có nhiều doanh nghiệp phá sản.
Hiện tại, tới 80% thị phần trong nước đang nằm trong tay các hãng thời trang nước ngoài. Nếu không có sự đầu tư đồng bộ (về chiến lược kinh doanh, sản phẩm, chiến lược quảng bá, hệ thống phân phối...) thì trong thời gian tới, các doanh nghiệp thời trang trong nước cũng khó mà bảo vệ được 20% thị phần như hiện nay.
* Theo chị, điểm yếu nhất của các doanh nghiệp thời trang trong nước hiện nay là gì?
- Là sự thiếu liên kết và chia sẻ kiến thức giữa các doanh nghiệp liên quan trong ngành. Thực trạng này một phần cũng do cơ chế quản lý ngành thời trang còn bị xé lẻ. Chẳng hạn, khâu biểu diễn thì do ngành văn hóa quản lý, còn khâu sản xuất lại thuộc Bộ Công nghiệp hoặc
Tập đoàn Dệt May...
* Những năm gần đây, tuy mức sống của người dân Việt Nam đã dần được cải thiện, song thu nhập bình quân đầu người vẫn còn ở mức thấp.
Theo chị, các doanh nghiệp thời trang trong nước nên lựa chọn phân khúc nào là “sáng suốt” nhất?
- Không có phân khúc nào để lựa chọn cả. Nói một cách chính xác, các doanh nghiệp thời trang Việt Nam hiện nay không có quyền “kén chọn” người tiêu dùng, vì người mua đã có nhiều cơ hội để lựa chọn người cung cấp. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là phải tìm cách tiếp cận người tiêu dùng và chinh phục họ.
Dĩ nhiên, việc này không đơn giản, và muốn làm được, trước hết phải thấu hiểu mong muốn của người tiêu dùng cũng như đặc tính mua sắm của từng giới, từng độ tuổi hay từng nhóm khách hàng.
* Có ý kiến cho rằng, cho đến nay lĩnh vực thời trang vẫn chưa được các doanh nghiệp và các nhà thiết kế đầu tư đúng mức. Và lý do họ đưa ra là khâu đào tạo thiết kế thời trang vẫn còn nhiều bất cập?
- Thực tế cho thấy, thiết kế chỉ chiếm 30% trong thành công của một thương hiệu thời trang. Còn để đứng vững và phát triển thì phải có sự đồng bộ trong quy trình phát triển thương hiệu, từ khâu nghiên cứu thị trường, đặc tính tiêu dùng, nguyên phụ liệu đến sản phẩm, bao bì...
Nếu nói về sự chưa khởi sắc của ngành thời trang mà lại quy lỗi nặng nhất cho khâu đào tạo thiết kế thì theo tôi là hơi khiên cưỡng. Vì trên thực tế, không hiếm nhà thiết kế được đào tạo bài bản ở nước ngoài nhưng khi về nước lại không có đất dụng võ. Vấn đề cần quan tâm là các doanh nghiệp làm thời trang cũng cần được đào tạo (bao gồm cả chủ doanh nghiệp lẫn đội ngũ nhân viên).
Họ phải nhận biết được sự khác biệt giữa kinh doanh thời trang và kinh doanh hàng may mặc. Có thể hiểu nôm na thế này: Nếu kinh doanh hàng may mặc là kinh doanh theo kiểu “may sẵn”, thì kinh doanh thời trang là kinh doanh theo kiểu “may đo” - tức đo theo suy nghĩ và mơ ước của người tiêu dùng.
Chính vì chưa được trang bị những kiến thức cơ bản và chuyên sâu mà nhiều doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc (có kiểu) lại cứ nghĩ mình đang kinh doanh thời trang.
Còn điểm yếu trong khâu đào thiết kế thời trang của Việt Nam hiện nay, theo tôi, là mới chỉ đáp ứng được mơ ước muốn làm “người nổi tiếng” của một số bạn trẻ, chứ chưa đáp ứng được cái thị trường cần. Mặt khác, đội ngũ giảng viên còn thiếu kinh nghiệm thực tế, vì từ lý thuyết đến thực tiễn vẫn còn một khoảng cách khá xa.
* Với vai trò “3 trong 1”: nhà thiết kế, người kinh doanh thời trang, người tư vấn cho một số DN sản xuất và kinh doanh thời trang trong nước, chị có nhận xét gì về đội ngũ thiết kế trẻ trong khoảng 10 năm gần đây?
- Họ đã trưởng thành rất nhiều, dù điều kiện học tập cũng như làm nghề còn hạn chế, dù vẫn phải loay hoay tìm lối đi riêng. Cụ thể, các bộ sưu tập của họ đã mang tính ứng dụng cao hơn, kỹ thuật may tốt hơn, ý tưởng sáng tạo cũng gần với xu hướng thời trang quốc
tế hơn...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét